Hóa học là khoa học về các đặc tính, sự cấu tạo, và cách thay đổi của các chất. Hóa học nói về các nguyên tố, hợp chất, nguyên tử, phân tử, và các phản ứng xảy ra giữa những thành phần đó.
1. Tóm tắt lịch sử Hóa học
Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước ở Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ.
Khoa giả kim thuật nghiên cứu về vật chất, nhưng thế giới của những nhà giả kim thuật đều dựa trên kinh nghiệm thực tế và công thức bắt nguồn từ thực hành chứ không dựa vào những nghiên cứu khoa học. Mục đích của họ là một chất gọi là "Hòn đá thông minh" dùng để biến đổi những chất như chì thành vàng. Các nhà giả kim thuật đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm để tìm ra chất này qua đó họ đã phát triển nhiều dụng cụ mà ngày nay vẫn còn được sử dụng trong kỹ thuật hóa học.
Nhưng không một nhà giả kim thuật nào tìm ra được hòn đá thông minh đó và trong thế kỷ thứ 17, các phương pháp làm việc của khoa giả kim thuật được thay đổi bằng những phương pháp khoa học. Một phần kiến thức của các nhà giả kim thuật được sử dụng bởi các nhà hóa học, những người làm việc dựa vào kết luận hợp lý của những gì mà họ quan sát được chứ không dựa vào ý nghĩ biến hóa chì thành vàng.
Lịch sử của hóa học có thể được coi như bắt đầu từ lúc Robert Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật trong tác phẩm The Skeptical Chemist (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm 1661 nhưng thường được đánh dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí ôxy vào năm 1783.
Hóa học như là một môn khoa học đã có được nhiều thúc đẩy vào thế kỷ 19. Những nghiên cứu của Justus von Liebig về tác động của phân bón đã thành lập ra ngành Hóa nông nghiệp và cung cấp nhiều nhận thức cho ngành hóa vô cơ. Cuộc tìm kiếm một hóa chất tổng hợp thay thế cho chất màu indigo dùng để nhuộm vải là bước khởi đầu của những phát triển vượt bậc cho ngành hóa hữu cơ và dược. Một đỉnh cao trong việc phát triển ngành hóa học là phát minh bảng tuần hoàn nguyên tố của Dmitri Ivanovich Mendeleev và Lothar Meyer. Mendelev đã sử dụng quy luật của bảng tuần hoàn để tiên đoán trước sự tồn tại và tính chất của germanium, gallium và scandium vào năm 1870. Gallium được tìm thấy vào năm 1875 và có những tính chất như Mendeleev đã tiên đoán trước.
Nghiên cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ 20 đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh vực của hóa học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân. Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu này đã mang lại nhiều nhận thức quan trọng về bản chất của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết hóa học. Các động lực quan trọng khác bắt nguồn từ những khám phá trong vật lý lượng tử thông qua mô hình quỹ đạo điện tử.
2. Tầm quan trọng
a) Trong cuộc sống
Phản ứng hóa học xảy ra trong cuộc sống hằng ngày thí dụ như trong lúc nấu ăn, làm bánh hay rán mà trong đó các biến đổi chất xảy ra một cách rất phức tạp đã góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho món ăn. Thêm vào đó thức ăn được phân tách ra thành các thành phần riêng biệt và cũng được biến đổi thành năng lượng trong các quá trình phân hủy trong cơ thể (hóa sinh). Sự đốt cháy cũng là một phản ứng hóa học có thể được quan sát dễ dàng. Nhuộm tóc, động cơ đốt trong, màn hình của điện thoại di động, bột giặt, phân bón, dược phẩm,... là các thí dụ khác cho ứng dụng của hóa học trong cuộc sống hằng ngày.
b) Trong công nghiệp
Công nghiệp hóa là một ngành kinh tế rất quan trọng. Công nghiệp hóa sản xuất các hóa chất cơ bản như axít sunfuric hay amoniac, thường là nhiều triệu tấn hằng năm, để thí dụ như dùng trong sản xuất phân bón và chất dẻo. Mặt khác công nghiệp hóa cũng sản xuất rất nhiều hợp chất phức tạp, đặc biệt là dược phẩm. Nếu không có các hóa chất được sản xuất trong công nghiệp thì cũng không thể nào sản xuất máy tính hay nhiên liệu và chất bôi trơn cho công nghiệp ô tô.
3. Các phân ngành
Hóa học được chia ra theo loại chất nghiên cứu mà quan trọng nhất là cách chia truyền thống ra làm Hóa hữu cơ (Hóa học nghiên cứu về những hợp chất của cácbon) và Hóa vô cơ (Hóa học của những nguyên tố và hợp chất không có chuỗi cácbon).
Một cách chia khác là chia Hóa học theo mục tiêu thành Hóa phân tích (phân chia những hợp chất) và Hóa tổng hợp (tạo thành những hợp chất mới).
Một số chuyên ngành quan trọng khác của Hóa học là : Hóa sinh, Hóa-Lý, Hóa lý thuyết bao gồm ngành Hóa lượng tử, Hóa thực phẩm, Hóa lập thể, và Hóa dầu. Ngoài ra còn 1 ngành cũng rất quan trọng đến ngành hóa đó là Cơ hóa-Nghiên cứu + sản xuất + chế tạo các thiết bị phục vụ ngành hóa.
(Theo
http://vi.wikipedia.org/wiki/Hóa_học) Giải Nobel Hóa học
1. Tiểu sử Alfled Nobel
Alfred Nobel sinh năm 1832 tại Stockholm, Thuỵ Điển và mất năm 1896. (Một số tài liệu cho rằng Alfred Nobel sinh năm 1833 là không chính xác).
Năm 1842, khi Nobel mới chín tuổi, ông theo cha sang thủ đô nước Nga. Ở đấy cha ông mở xưởng sản xuất vũ khí cho Nga Sa Hoàng đánh nhau với liên quân Anh - Pháp. Do ảnh hưởng này, cậu bé Alfred yêu thích môn hoá học và học nói tiếng Nga. Sau khi nước Nga bị thua trận, gia đình Nobel trở về Thụy Điển.
Lúc 30 tuổi Nobel đã là kỹ sư hoá học giỏi, ông chú ý đến một phát minh có thể góp phần việc giải quyết vấn đề phá núi, đào kênh, làm đường... Đó là chất thuốc nổ Nitroglycerine. Chất này đã được phát minh từ năm 1846 nhưng rất nguy hiểm vì quá dễ nổ nên chưa có ứng dụng thuận lợi. Chất này khi nổ sẽ cho ra một lượng khí gấp 13 lần thuốc và làm các vật chất nổ phóng ra với tốc độ 7.500m trong một giây.
Ba năm sau nghiên cứu chất này, năm 1866 Nobel đã khống chế được nó và cho ra đời một thứ thuốc nổ an toàn có tên là Dynamite, mà ta phiên âm là cốt mìn. Là một người có đầu óc kinh doanh ông đã mở xưởng tại nhiều nước để sản xuất thứ thuốc nổ này. Trước sau ông có tới 300 bằng sáng chế có đăng ký bản quyền. Và từ các xưởng sản xuất tại nhiều nước, Nobel đã trở thành một nhà triệu phú thời bấy giờ với khối tài sản hơn 500 triệu USD.
Thế nhưng nếu cuộc đời phát minh sáng chế của ông thành công bao nhiêu thì ông lại bất hạnh bấy nhiêu trong cuộc sống tình cảm. Trong tự truyện viết khi ông 54 tuổi, ông có ghi: "Tôi không có được một gia đình làm nơi thả neo, không có bạn bè được yêu thương, cũng không có kẻ thù để căm ghét".
Năm 1876 khi đã 43 tuổi, Nobel vẫn là một người cô đơn. Ông cho đăng lên một tờ báo ở Viên, thủ đô nước Áo (nơi ông có xưởng sản xuất) một dòng tìm bạn: "Một người đàn ông đã nhiều tuổi, có học, giàu có, sống ở Pari, xin mời một phụ nữ trung niên biết vài ngoại ngữ làm thư ký kiêm quản gia".
Lúc ấy có một phụ nữ người Áo đến gặp ông, bà tuy là quý tộc nhưng gặp khó khăn về kinh tế nên phải làm gia sư để kiếm sống. Tiếc thay, sau khi tìm hiểu ông biết bà đã có người hứa hôn nên việc tìm một người bạn đời kiêm trợ lý là không thành.
Sau đó ông gặp một thiếu nữ Do Thái 20 tuổi tên là Sofia Gherx, một cô gái nghèo bán hoa ở Viên. Cô đã chấp nhận sang Pari với ông. Ở đây ông thuê cho cô một biệt thư có người phục vụ. Nhưng cô gái này ham ăn diện và không học được tiếng Pháp nên Nobel rất buồn. Sau hơn 10 năm quan hệ ông khuyên cô đi lấy chồng và về sau trong bản di chúc ông vẫn dành cho cô hưởng 1 phần trợ cấp là 6.000 Florins mỗi năm.
2. Về giải thưởng Nobel
Ngày 27/11/1895 Alfred Nobel đã ký một bản di chúc dành phần lớn tài sản của ông cho việc thành lập một giải thưởng mang tên ông. Một năm sau ngày 10/12/1896, Nobel qua đời. Bản di chúc bắt đầu có hiệu lực.
Điều rắc rối của bản di chúc là Alfred Nobel không làm công chứng và không giao cho văn phòng luật sư. Đó là một bản di chúc chép tay gồm 4 trang vở giấy học trò. Chỉ có 4 người bạn làm chứng có tên và địa chỉ trong bản di chúc.
Cũng trong di chúc ông giao cho một người trợ lý, người giúp việc chí tình của ông là Ragnar Sohlman cùng với một người nữa được chỉ định thực hiện bản di chúc và ông cũng dành cho những người này một số tiền đáng kể cho việc thực hiện di chúc.
Ngày 10/12/1896, bản di chúc được mở ra làm ngỡ ngàng nhiều người thân vì họ tưởng họ sẽ được hưởng phần thừa kế nhiều hơn thế. Khối tài sản giá trị lớn lao này, sau khi thu thập lại tương đương với là 33.200.000 Coron tương đương với 1,4 tỷ Frăng (năm 1987). Ông dành tiền để làm năm giải thưởng mà các tài liệu khoa học khi công bố bản di chúc chỉ lấy câu đầu tiên và đoạn này để công bố. Sau đây là phần di chúc liên quan đến giải thưởng NOBEL:
Tôi người ký tên dưới đây, Alfred Bernhard Nobel tuyên bố về sự cân nhắc kỹ lưỡng ý nguyện của tôi về vấn đề tài sản khi tôi qua đời như sau:
Số tiền chuyển đổi từ tài sản của tôi sẽ được thực hiện theo cách sau đây:
Phần lớn số tiền đó sẽ do những người thực hiện di chúc của tôi đầu tư một cách an toàn nhất và sẽ trở thành một vốn mà mà lợi tức hàng năm sẽ được sử dụng để làm thành các giải thưởng dành cho những ai trong năm trước đó có những công hiến lớn nhất cho lợi ích của nhân loại.
Lợi tức đó sẽ được chia thành 5 phần bằng nhau và được phân phối theo cách sau:
- Một phần sẽ tặng cho người có khám phá hoặc cải tiến quan trọng nhất trong lĩnh vực Vật lý.
- Một phần sẽ dành cho người có khám phá hay cải tiến đặc sắc nhất về hoá học.
- Một phần sẽ dành cho người có khám phá quan trọng nhất trong sinh lý học và y học.
- Một phần sẽ dành cho người có tác phẩm có ý nghĩa nhất về mặt lý tưởng trong lĩnh vực văn học.
Và phần sau cùng sẽ dành cho người có cống hiến lớn nhất hoặc tốt nhất cho tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, cho sự huỷ bỏ hoặc giảm bớt các quân đội thường trực, cho sự tập hợp và tổ chức các Hội nghị Hoà bình.
Các giải về Vật lý và Hoá học sẽ do Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao tặng. Các giải Sinh học và Y học do Viện Caroline ở Stockholm trao tặng, và các giải thưởng về Hoà bình sẽ do một Uỷ ban gồm năm thành viên do Nghị viện Na Uy đề cử.
Điều mong ước khẩn thiết của tôi là sẽ không có một sự phân biệt nào về quốc tịch trong việc trao giải, và người xứng đánh nhất để nhận giải có thể có hay không nguồn gốc Bắc Âu.
Paris, ngày 27 tháng 11 năm 1895.
Alfred Nobel
Giải thưởng NOBEL được trao bắt đầu từ năm 1901. Cho tới nay đã có hơn 750 giải thưởng NOBEL đã được trao cho các nhà khoa học, nhà văn những người hoạt động hoà bình cho thế giới. Những người được giải không những là một vinh dự cho cá nhân mà còn mang lại vinh quang cho tổ quốc của mình. Đây là giải thưởng khoa học lớn nhất thế giới có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp phát triển khoa học của nhân loại.
Phần thưởng (dành cho mỗi giải)
Một tấm bằng, Huy chương Nobel do Erik Lindberg thực hiện năm 1902: chân dung Nobel trên nền phúng dụ Tự nhiên và Khoa học, một món tiền (thay đổi tùy theo lãi của vốn Quỹ Nobel). Theo tính toán của Nobel, những năm đầu, mỗi giải thưởng tương đương 15 năm lương của một giáo sư đại học. Năm 1948, mỗi giải trị giá 32.000 USD. Năm 1980, 210.000 USD. Cuối những năm 1990 là 1 triệu USD. Và năm nay là 1,36 triệu USD.
Tại sao giải noben không có giải cho toán học - một nghành khao học cơ bản ? Giai thoại ít bít về giải noben.
Giai thoại cho rằng Alfred Nobel, vốn độc thân suốt đời, đã từ chối tôn vinh các nhà toán học, vì e rằng một ngày nào đấy, phần thưởng sẽ về tay Gosta Magnus Mittag - Leffler, một nhà toán học Thụy Điển, đã ăn cắp trái tim của nàng Sophie Hess, nhân tình của ông.
3. Giải Nobel Hóa học từ 1901 đến 2007
Như ta đã biết, khoa học phát triển nhanh và số người nghiên cứu thành công trên thế giới càng ngày càng nhiều. Giải Nobel được phát cho tối đa là ba người cho mỗi môn. Có khi họ làm chung một chủ đề, có khi hơi khác biệt nhưng bổ túc cho nhau.